Nhiều trường lách luật tăng chỉ tiêu tuyển sinh

Quy mô đào tạo ở không ít trường ĐH ngày càng phình to, trong khi số lượng cử nhân thất nghiệp ngày một nhiều. Ảnh: Như Ý.



Luật giáo dục ĐH có hiệu lực, thay vì Bộ GD&ĐT giao chỉ tiêu đào tạo thì các trường được phép tự xác định chỉ tiêu cho mình theo năng lực đào tạo. Nhưng để kiểm soát các trường không xác định chỉ tiêu một cách tùy tiện, năm 2011, Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư 57 về xác định chỉ tiêu đào tạo ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ. Trong thông tư này, để xác định chỉ tiêu, các trường dựa vào 2 tiêu chí: Quy đổi giảng viên và cơ sở vật chất. Thế nhưng chỉ sau khi thông tư ra đời không lâu, chỉ tiêu của các trường vẫn đua nhau phình ra!

Để siết chặt hơn, năm 2015, Bộ GD&ĐT tiếp tục ban hành Thông tư 32 về xác định chỉ tiêu đào tạo ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ thay thế Thông tư 57 năm 2011. Thông tư 32 có thêm 1 tiêu chí mới và sửa đổi 2 tiêu chí cũ. Đối với tiêu chí quy đổi đội ngũ giảng viên, Bộ GD&ĐT yêu cầu xác định theo nhóm ngành, không xác định theo “gói” chung. Tiêu chí về cơ sở vật chất, từ không dưới 2m2/sinh viên lên không dưới 2,5m2/sinh viên.

Dù Bộ GD&ĐT đã “rào” bằng nhiều văn bản nhưng các trường vẫn có thể lách luật. Đơn cử, nếu chiếu theo quy định của Bộ GD&ĐT, với quy mô 35.000 sinh viên của ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội (cả chính quy và không chính quy của trường) thì diện tích cơ sở vật chất của trường phải là 87.500m2 (theo Thông tư 32). Còn tính riêng sinh viên chính quy thì diện tích trường cần đáp ứng là 75.000m2. Nhưng đại diện lãnh đạo của trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội lý giải rằng: Diện tích phòng học của trường là 41.731m2, sinh viên chỉ học một ca, nên nếu sử dụng 2 ca thì diện tích sử dụng thực của trường sẽ gấp đôi là 83.462m2, đủ đáp ứng cho 30.000 sinh viên Hệ chính quy học theo quy định. Như vậy, với cách giải thích này thì nếu trường tổ chức học 3 ca/ngày, không lẽ mỗi mét vuông sàn xây dựng sẽ được nhân lên làm 3 lần? Nội dung này đã không được quy định rõ trong văn bản của Bộ GD&ĐT.

Hơn nữa, việc Bộ GD&ĐT gộp tất cả các tiêu chí nhỏ (Diện tích sàn xây dựng trực tiếp phục vụ đào tạo gồm các hạng mục: Hội trường, giảng đường, phòng học các loại; Thư viện, trung tâm học liệu; Phòng thí nghiệm, phòng thực hành, xưởng thực tập, nhà tập đa năng) lấy diện tích trung bình không dưới 2.5m2 sẽ dẫn đến tình trạng các trường chỉ cần đáp ứng đủ diện tích. Chính vì vậy, việc Viện ĐH Mở Hà Nội có thể thuê cho sinh viên học tại các tòa nhà trung tâm thương mại nằm sát đường tàu, gần chợ ồn ào... cũng không bị xử lý hay “tuýt còi”.

Khe hở trong quản lý giảng viên

Với tiêu chí quy đổi giảng viên, một chuyên gia giáo dục lý giải lý do vì sao các trường ngoài công lập có thể dễ dàng phình chỉ tiêu. Theo vị chuyên gia này, sở dĩ các trường công lập khó tăng chỉ tiêu đột biến vì đội ngũ giảng viên phải dựa vào ngân sách cấp, chỉ tiêu do các bộ chủ quản xác định. Còn với đội ngũ giảng viên đã hết tuổi, muốn giữ lại trường, các trường chỉ được ký hợp đồng, không được coi là giảng viên cơ hữu.


“Bộ cũng cùng quan điểm với báo Tiền Phong nên rất lo lắng về việc mở tự chủ ĐH khi chưa đủ điều kiện về chất lượng”.

Bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH, Bộ GD&ĐT


Trong khi đó, tại các trường ngoài công lập, các trường được phép tự tuyển giảng viên, tuyển từ người còn độ tuổi lao động hoặc những người đã quá tuổi lao động. Theo quy định của Bộ GD&ĐT tại Thông tư 57, giảng viên tại các cơ sở giáo dục ĐH ngoài công lập là giáo viên, giảng viên hợp đồng lao động dài hạn, làm việc toàn phần tại cơ sở đào tạo.

Tại Thông tư 32, quy định này đã rõ hơn như giảng viên cơ hữu của cơ sở giáo dục đại học tư thục là người lao động ký hợp đồng lao động có thời hạn 36 tháng hoặc hợp đồng không xác định thời hạn... Chính quy định này đã tạo “kẽ hở” để các trường ngoài công lập có được một danh sách giảng viên cơ hữu theo mong muốn. Bởi các trường vẫn ký hợp đồng, nhưng lương trả theo tiết giảng. “Có giảng viên cơ hữu có khi cả năm không có dạy tiết nào cũng có tên trong danh mục của nhiều trường” – vị chuyên gia khẳng định.

Trong khi đó, với khoảng hơn 400 trường ĐH, CĐ, Bộ GD&ĐT khó có thể thanh tra đồng loạt tất cả các trường mỗi mùa tuyển sinh. Do vậy, các trường vẫn làm và nếu bị thanh tra đến và phát hiện tuyển vượt so với thực tế thì chấp nhận phạt, chấp nhận trừ chỉ tiêu năm sau. Chia sẻ về thực tế này, bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH, Bộ GD&ĐT nói: “Bộ cũng cùng quan điểm với báo Tiền Phong nên rất lo lắng về việc mở tự chủ ĐH khi chưa đủ điều kiện về chất lượng. Trên thực tế, việc thi, cấp chứng chỉ hành nghề hầu như chưa được hình thành, việc tuyển dụng lao động còn hình thức và nhiều tiêu cực; thống kê sinh viên thất nghiệp chưa đáng tin cậy, không thống kê do trường nào đào tạo ra... nên không tạo ra sức ép để buộc các trường phải đầu tư chất lượng...”.

Cũng theo đại diện Bộ GD&ĐT, trong điều kiện đó, nếu cứ muốn cho trường được tự chủ tối đa còn Bộ có trách nhiệm đi giải trình về chất lượng đào tạo thì thật khó. “Các khâu khác trong quy trình đào tạo-đánh giá-sử dụng... không liên kết được với nhau thì không có Bộ GD&ĐT nước nào quản được chất lượng” – bà Phụng chia sẻ.


Theo Hoa Ban (Tiền Phong)

Sinh viên lười đọc sách: Thích nghi với sự thay đổi

Ngoài việc thực hiện tốt vai trò tổ chức nội dung, các thư viện cần hoàn thiện các dịch vụ để thu hút sinh viên đến đọc sách

Các nhà quản lý giáo dục và giảng viên cho rằng việc chuyển đổi từ sách in sang sách điện tử (online) là xu thế tất yếu của xã hội. Càng ngày văn hóa đọc và nghe nhìn cạnh tranh nhau càng gay gắt, người đọc thích sử dụng những phương tiện có nhiều hình ảnh, sự chuyển động hơn là những cuốn sách, bài diễn văn.

Coi sinh viên như khách hàng

PGS-TS Võ Văn Sen, Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG TP HCM), cho rằng sinh viên (SV) và các nhà khoa học cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ: Từ sách in cổ điển sang sách điện tử dạng file. Với sách in, người ta chỉ tìm đọc những cuốn không có trên mạng internet, sách cổ điển, có tính chất lý luận hệ thống. Việc đọc sách in cũng tùy thuộc vào từng ngành, nghề. SV hiện nay đến thư viện không chỉ mượn đọc sách in mà còn sinh hoạt, họp nhóm, sử dụng WiFi, không gian để lên mạng tìm tài liệu.

Trước thực tế này, nhiều trường ĐH đã hoàn thiện các dịch vụ tiện ích, tạo nhiều điều kiện thuận lợi trong việc cho mượn tài liệu để thu hút SV. Thư viện Trường ĐH Luật TP HCM tuy diện tích nhỏ với 3 phòng đọc nhưng có hơn 13.000 đầu sách in, trong khi sách điện tử chỉ 2.500. Đại diện trường cho rằng có lẽ do đặc thù ngành học đòi hỏi phải đọc thật nhiều sách in về luật nên mỗi ngày, thư viện tiếp khoảng 700 lượt bạn đọc. Hiện nay, số hồ sơ bạn đọc đang hoạt động là 8.000 người. Thư viện cũng áp dụng phương án sử dụng thủ thư là cộng tác viên SV. Ngoài ra, thư viện còn triển khai dịch vụ scan, photocopy gửi qua mail, bưu điện và được bạn đọc nhiệt tình đón nhận.

Theo ThS Đỗ Thị Lợi, Phó Giám đốc Thư viện Trường ĐH Nông Lâm TP HCM, hiện nay, nhu cầu về dịch vụ tại thư viện của SV rất cao, đòi hỏi đội ngũ quản lý, nhân viên phải linh hoạt trong việc ứng xử, giải quyết.




Thư viện Trường ĐH Nông Lâm TP HCM khang trang nhưng vắng bóng sinh viên Ảnh: LÊ THOA

Tại Thư viện Trung tâm ĐHQG TP HCM, SV được chăm sóc như khách hàng thực sự. Ngoài kho sách khổng lồ, thư viện còn có phòng máy tính, máy in, photocopy, phòng họp nhóm rộng rãi, thoáng mát. Hằng năm, thư viện đều thực hiện khảo sát đánh giá mức độ hài lòng về chất lượng phục vụ và tổ chức các cuộc thi, sự kiện nhằm tăng tính tương tác với SV. “Trước đây, chúng tôi cấm SV ăn uống và ngủ nghỉ trong thư viện. Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện, nhận thấy ý thức SV tại đây khá tốt nên chúng tôi đã gỡ bỏ quy định này. Thư viện giờ trở thành ngôi nhà thực sự của nhiều SV” - TS Hoàng Thị Thục, Giám đốc Thư viện Trung tâm ĐHQG TP HCM, cho biết.


Cần sự định hướng của giảng viên


ThS Dương Thúy Hương, Giám đốc Thư viện Trường ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP HCM), nhận xét đa số SV của trường đều lên thư viện với thái độ tìm tòi, học hỏi. “Nguồn sách online trong thư viện đều có nguồn gốc đáng tin cậy, được đầu tư công phu và chia sẻ với 8 đơn vị của ĐHQG nên nếu SV tham khảo bằng cơ sở dữ liệu trực tuyến cũng tốt. Ngoài ra, lượng sách in vẫn được tăng thêm mỗi năm do nhu cầu đào tạo” - ThS Hương cho biết.


Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của internet, SV phải đối mặt thách thức mới, từ đó học cách ứng phó với sự lôi kéo: Nên đọc gì, không nên đọc gì? Theo PGS Võ Văn Sen, lựa chọn cách tiếp cận thông tin là từ bản thân SV nhưng không nên đổ lỗi hoàn toàn cho họ. Các trường học, giảng viên cũng phải thích nghi, ứng phó trước sự thay đổi bằng cách tăng cường WiFi, cung cấp lượng học liệu phong phú bằng file. “Thầy cô giáo cần hỗ trợ, hướng dẫn, cho địa chỉ để các em không phải khó khăn trong việc tự tìm tài liệu. Cùng lúc, quản lý thư viện cũng phải là đội ngũ giỏi về thông tin, công nghệ chứ không chỉ đơn thuần am hiểu về sách như ngày trước. Tóm lại, một thư viện thu hút SV là nơi biết gắn kết giữa thư viện sách in kiểu cũ với thông tin học hiện đại” - PGS Sen nêu quan điểm.



TS Hoàng Thị Thục cho rằng bên cạnh sự cố gắng của thư viện, rất cần tác động của giảng viên và ý thức của SV về sự cần thiết của việc sử dụng thư viện phục vụ học tập và nghiên cứu. Giảng viên, giáo viên hướng dẫn có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng và yêu cầu SV phải luôn tìm tòi, nghiên cứu tài liệu thay vì chỉ học theo một vài giáo trình nào đó.